Ông từng viết nhiều bài báo, bài bình luận phân tích sâu sắc, là tác giả của một số cuốn sách như “Giấc mơ hóa rồng”, “25 năm theo dòng kinh tế Việt Nam”. Theo ông, 45 năm qua, vì sao VN bỏ qua cơ hội hóa rồng?
- Khi đất nước được hòa bình, thống nhất sau ngày 30/4/1975, không phải chỉ người VN mà cả thế giới đều mong và nghĩ rằng đó là cơ hội cho một con rồng xuất hiện ở Đông Nam Châu Á. Nhưng lúc đó thế giới còn trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, xung đột Nga Mỹ vẫn tiếp diễn, nhiều nước trong khu vực không muốn VN có hòa bình để phát triển.
Chúng ta phải giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và kháng cự cuộc chiến xâm lược suốt chiều dài biên giới phía bắc. Tài nguyên, nhân lực của đất nước bị ngốn vào các cuộc chiến tiêu hao đó, cơ hội phát triển của VN bị cướp mất.
Năm 1986, đất nước quyết tâm đổi mới và mở cửa, thừa nhận nền kinh tế 5 thành phần, mở rộng xuất nhập khẩu, làm bạn với các nước. Mọi người một lần nữa tin rằng Việt Nam sẽ có cơ hội thành rồng. Không những các chuyên gia trí thức trong nước, cả trí thức Việt Kiều và các nước ngoài cùng nhau đóng góp ý kiến cho việc hình thành một chiến lược hóa rồng cho Việt Nam.
Một nhóm giáo sư đại học Harvard, Mỹ đã thực hiện một công trình nghiên cứu phát triển kinh tế cho Việt Nam lấy tên là “Theo hướng rồng bay”. Kỳ vọng của mọi người cho việc xuất hiện sớm của con rồng Việt Nam là rất lớn.
Nhưng trong suốt những năm tiếp theo, tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy có tăng nhưng chưa bao giờ đến mức 2 con số. Chỉ số ICOR từ 2,5 vào những năm đầu Đổi mới đã tăng đến 6 rồi 8 mười năm sau, cho thấy hiệu quả đầu tư ngày càng kém, năng suất lao động tăng chậm.
Xuất nhập khẩu tuy có tăng nhưng thâm hụt ngoại thương ngày càng lớn, xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, nợ công tăng chóng mặt, ngân sách khiếm hụt triền miên. Sau 20 năm phát triển, nền kinh tế Việt Nam đang gặp phải nguy cơ lọt vào bẫy thu nhập trung bình thấp.
Chúng ta một lần nữa đánh mất cơ hội do không đánh giá đúng vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư doanh. Xem quốc doanh là chủ đạo, chúng ta dành trọn nguồn vốn, nhân lực, tài nguyên cho khu vực này, duy trì tỷ giá cao để mua hàng nhập khẩu rẻ hơn, một mức lãi suất cao để tập trung nguồn tài chính vào khu vực kinh tế quốc doanh. Kết quả như đã nói ở phần trên.
Trung Quốc cũng tiến hành cải cách kinh tế đồng thời với ta, có lĩnh vực còn chậm hơn (như việc giải tỏa hệ thống giá cả), nhưng với quan điểm mèo đen mèo trắng miễn bắt chuột là được, đã phát triển mạnh khu vực tư. Các chính sách tỷ giá, lãi suất đều hướng vào việc kích thích xuất khẩu (vốn là thế mạnh của khu vực tư), khuyến khích đầu tư nước ngoài. Do đó, ngoại thương liên tục thặng dư, đầu tư nước ngoài tăng vọt, Trung Quốc trở thành công xưởng thế giới, dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới.
Nhưng cơ hội để phát triển lúc nào cũng còn đó. Tôi tin rằng những bài học của quá khứ sẽ giúp ta đạt được thắng lợi trong tương lai. Giấc mơ hóa rồng của Việt Nam dù muộn, cũng sẽ trở thành hiện thực.